Jeļena Ostapenko
Ostapenko tại Giải quần vợt Wimbledon 2017 | ||||||||||||
Quốc tịch | Latvia | |||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Nơi cư trú | Riga, Latvia | |||||||||||
Sinh | 8 tháng 6, 1997 Riga, Latvia | |||||||||||
Chiều cao | 1,77 m | |||||||||||
Lên chuyên nghiệp | 23 tháng 4 năm 2012[1] | |||||||||||
Tay thuận | Tay phải (trái tay hai tay) | |||||||||||
Huấn luyện viên | Glenn Schaap (2018–)[2] | |||||||||||
Tiền thưởng | 7.875.473 đô la | |||||||||||
Đánh đơn | ||||||||||||
Thắng/Thua | 214–127 (62.76%) | |||||||||||
Số danh hiệu | 2 (7 ITF) | |||||||||||
Thứ hạng cao nhất | 5 (19 tháng 3 năm 2018) | |||||||||||
Thứ hạng hiện tại | 40 (20 tháng 5 năm 2019) | |||||||||||
Thành tích đánh đơn Gland Slam | ||||||||||||
Úc Mở rộng | V3 (2017, 2018) | |||||||||||
Pháp mở rộng | VĐ (2017) | |||||||||||
Wimbledon | BK (2018) | |||||||||||
Mỹ Mở rộng | V3 (2017, 2018) | |||||||||||
Các giải khác | ||||||||||||
WTA Finals | VB (2017) | |||||||||||
Đánh đôi | ||||||||||||
Thắng/Thua | 96–74 (56.47%) | |||||||||||
Số danh hiệu | 3 WTA, 8 ITF | |||||||||||
Thứ hạng cao nhất | 32 (19 tháng 6 năm 2017) | |||||||||||
Thứ hạng hiện tại | 41 (13 tháng 5 năm 2019) | |||||||||||
Thành tích đánh đôi Gland Slam | ||||||||||||
Úc Mở rộng | V2 (2019) | |||||||||||
Pháp Mở rộng | V1 (2016, 2017, 2018) | |||||||||||
Wimbledon | V3 (2016, 2018) | |||||||||||
Mỹ Mở rộng | V2 (2016) | |||||||||||
Kết quả đôi nam nữ Grand Slam | ||||||||||||
Pháp Mở rộng | V1 (2017) | |||||||||||
Wimbledon | BK (2016) | |||||||||||
Mỹ Mở rộng | V2 (2017) | |||||||||||
Giải đồng đội | ||||||||||||
Fed Cup | 29–13 | |||||||||||
Thành tích huy chương
| ||||||||||||
Cập nhật lần cuối: 16 tháng 5 năm 2019. |
Jeļena Ostapenko (sinh ngày 8 tháng 6 năm 1997), hay tên khác là Aļona Ostapenko,[3] là một vận động viên quần vợt người Latvia. Cô đạt thứ hạng cao nhất trên bảng xếp hạng WTA đơn là thứ 5 thế giới vào tháng 3 năm 2018, và đạt hạng 32 trên bảng xếp hạng đánh đôi WTA vào tháng 6 năm 2017.
Ostapenko từng vô địch đơn nữ Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2017, trở thành tay vợt Latvia đầu tiên vô địch một giải Grand Slam và là tay vợt không được xếp hạng hạt giống đầu tiên vô địch Pháp Mở rộng kể từ năm 1933. Cô cũng là thành viên của đội tuyển Fed Cup Latvia.[4] Cô giành được bảy danh hiệu đơn và tám danh hiệu đôi tại hệ thống giải của ITF, cũng như vô địch nội dung đơn nữ trẻ Giải quần vợt Wimbledon 2014. Ostapenko nổi tiếng với lối đánh quyết liệt, đặc biệt là các cú đánh dọc dây.
Cuộc sống cá nhân
[sửa | sửa mã nguồn]Jelena sinh tại Riga, Latvia. Cha cô, ông Jevgenijs Ostapenko là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp. Ông từng chơi cho FC Metalurh Zaporizhya.[5] Mẹ cô là bà Jelena Jakovleva, bà chính là người giới thiệu Ostapenko tới với quần vợt. Ostapenko có một anh trai cùng cha khác mẹ, Maksim, hiện đang sống tại Hoa Kỳ. Ostapenko cũng biết khiêu vũ. Cô từng giành quyền tham dự Giải khiêu vũ quốc gia Latvia. Sau đó, một chấn thương bàn chân đã cướp đi sự nghiệp khiêu vũ của cô. Năm 12 tuổi, cô mới thực sự chuyên tâm chơi quần vợt.[6] Ostapenko thần tượng Serena Williams từ nhỏ. Cô nói tiếng Latvia, tiếng Nga, và tiếng Anhh.[7][8]
Tên khai sinh hợp pháp của cô là Jeļena, nhưng gia đình và bạn bè thường gọi cô với tên thân mật là Aļona. Khi cô ra đời, cha mẹ cô muốn đặt tên cô là Aļona, tuy nhiên cái tên này không có trong lịch đặt tên Latvia, vì vậy cô được đặt tên là Jeļena giống như mẹ cô.[9] Mặc dù vậy chính quyền Latvia hiện khẳng định không có sự giới hạn nào trong việc đặt tên con cái ở Latvia.[10] Người hâm mộ Latvia và khu vực Đông Âu cũng luôn gọi cô là Aļona, và chỉ bắt đầu được người hâm mộ quần vợt phương Tây biết tới từ năm 2017.[9] Cô sử dụng tên khai sinh để tránh rắc rối về hành chính.[11]
Sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]2014: Vô địch Wimbledon trẻ và ra mắt chuyên nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Ostapenko vô địch nội dung đơn nữ trẻ tại Giải quần vợt Wimbledon 2014[12] và vươn lên hạng 2 trên bảng xếp hạng trẻ thế giới vào tháng 9 năm 2014.[13] Cô lần đầu tiên thi đấu một vòng đấu chính của WTA Tour tại Tashkent Open 2014 thông qua suất wildcard.
2015: Ra mắt vòng đấu chính Grand Slam
[sửa | sửa mã nguồn]Tại Ladies Neva Cup, Ostapenko vượt qua vòng loại và giành chức vô địch.
Tại Wimbledon, Ostapenko đánh bại hạt giống số 9 Carla Suárez Navarro trong hai set ở vòng một nhưng thua sau đó trước Kristina Mladenovic.[14][15]
Tại Mỹ Mở rộng, cô thua ở vòng hai trước Sara Errani.[16][17]
Vào tháng 9 cô lọt vào trận chung kết WTA đầu tiên trong sự nghiệp tại Coupe Banque Nationals nhưng thua trước Annika Beck.
Cô kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 79.
2016:Chung kết Premier 5 đầu tiên, bán kết đôi nam nữ Wimbledon
[sửa | sửa mã nguồn]Cô lọt vào chung kết Qatar Open, một giải Premier 5 ở Doha, chiến thắng trước Petra Kvitová trên đường tới chung kết. Cô để thua Carla Suárez Navarro trong trận chung kết, tuy nhiên vươn lên thứ 41 thế giới.[18]
Tại Pháp Mở rộng, Ostapenko là một trong số các hạt giống nhưng thua Naomi Osaka ngay trong trận đầu tiên.
Tại Aegon Classic, cô thắng Anastasia Pavlyuchenkova tại vòng một, thắng Petra Kvitová ở vòng hai. Cô để thua Madison Keys ở tứ kết. Cô lọt vào bán kết nội dung đôi nam nữ Wimbledon cùng Oliver Marach, để thua trước cặp Heather Watson và Henri Kontinen.[19]
Ostapenko tham dự Thế vận hội 2016. Cô thua Samantha Stosur ở vòng một.
2017: Vô địch Pháp Mở rộng, lọt vào top 10
[sửa | sửa mã nguồn]Tại Úc Mở rộng, cô lọt vào vòng ba và dừng bước trước Karolína Plíšková trong ba set mặc dù có cơ hội giành match point trong set giao bóng của mình ở set thứ ba.[20]
Tại Charleston Open, cô lọt vào chung kết và thua trước Daria Kasatkina.
Tại giải Pháp Mở rộng, Ostapenko, thời điểm đó xếp hạng 47 thế giới, lần lượt vượt qua Louisa Chirico, Monica Puig, Lesia Tsurenko, và Samantha Stosur. Co đối mặt với Caroline Wozniacki ở tứ kết. Ostapenko lột ngược dòng sau khi thua ở set đầu để lần đầu tiên lọt vào bán kết Grand Slam. Cô là tay vợt nữ Latvia đầu tiên làm được điều nay và tay vợt tuổi teen đầu tiên lọt vào bán kết Pháp Mở rộng sau đúng một thập kỷ (người cuối cùng là Ana Ivanovic năm 2007). Đối thủ của cô ở bán kết là Timea Bacsinszky trong trận đấu diễn ra đúng vào ngày 8 tháng 6, ngày sinh của cả hai tay vợt.[21][22] Cô hạ Bacsinszky trong ba set, trở thành tay vợt đầu tiên không được xếp hạt giống lọt vào chung kết Pháp Mở rộng kể từ Mima Jaušovec năm 1983 và là người Latvia đầu tiên lọt vào chung kết Grand Slam.[23] Trong trận chung kết với hạt giống số 3 Simona Halep, Ostapenko, dù thua ở set đầu và bị dẫn 3–0 ở set 2, hoàn tất cú lội ngược dòng để giành danh hiệu đơn đầu tiên trong sự nghiệp với tỉ số 4–6, 6–4, 6–3. Cô là vận động viên quần vợt Latvia đầu tiên vô địch nội dung đơn Grand Slam và là tay vợt nữ không phải hạt giống đầu tiên vô địch Pháp Mở rộng kể từ năm 1933.[24][25][26] Ostapenko cũng là tay vợt đầu tiên sau Gustavo Kuerten đoạt chức vô địch đầu tiên trong sự nghiệp ngay tại một giải Grand Slam; trùng hợp là Kuerten giành chức vô địch đầu tiên của anh tại Pháp Mở rộng 1997 vào đúng ngày Ostapenko chào đời.[27]
Tại Wimbledon, Ostapenko vượt qua Aliaksandra Sasnovich, Françoise Abanda, Camila Giorgi, và hạt giống thứ tư Elina Svitolina trên đường tới tứ kết Grand Slam thứ hai. Cô thua trước Venus Williams, người từng năm lần vô địch giải đấu.
Tại Mỹ Mở rộng, cô lọt vào vòng ba sau các chiến thắng trước Lara Arruabarrena và Sorana Cîrstea,[28] tuy nhiên dừng bước trước Daria Kasatkina.[29] Tuy vậy thành tích này vẫn đủ để cô;lần đầu lọt vào top 10 thế giới.
Cô giành danh hiệu WTA thứ hai trong sự nghiệp tại Korea Open ở Seoul. Tại Wuhan Open, cô loại Barbora Strýcová và Monica Puig để tiến tới tứ kết, nơi cô có chiến thắng trước tay vợt số 1 thế giới, Garbiñe Muguruza.[30] Cô thua trước Ashleigh Barty ở bán kết.
Vào tháng 10, cô lọt vào bán kết China Open 2017 và để thua Simona Halep.[31] Tại WTA Finals, cô thắng Karolína Plíšková tuy nhiên thua Muguruza và Venus Williams ở vòng bảng. Cô kết thúc năm 2017 ở hạng 7 thế giới.
2018: Top 5 thế giới, bán kết Wimbledon
[sửa | sửa mã nguồn]Tại Indian Wells, Ostapenko hạ gục Belinda Bencic ở vòng hai,[32] tuy nhiên thua Petra Martić ở vòng ba.[33] Kết quả này giúp cô lọt vào top 5 thế giới.
Tại Miami Open, cô đánh bại hạt giống số 9 Petra Kvitová ở vòng bốn và hạt giống số 4 Elina Svitolina ở tứ kết với tỉ số 7-6, 7-6. Ở bán kết Ostapenko vượt qua Danielle Collins tuy nhiên thua ở chung kết Sloane Stephens.
Ostapenko quay lại Pháp Mở rộng với tư cách đương kim vô địch và là hạt giống số 5 tuy nhiên thua ngay tại vòng 1 trước Kateryna Kozlova. Sau thất bại này Ostapenko bị bật khỏi top 10. Tại Wimbledon, cô đánh bại Katy Dunne, Kirsten Flipkens, Vitalia Diatchenko và Aliaksandra Sasnovich để lọt vào tứ kết.[34][35] Cô loại Dominika Cibulková để tiến vào vòng bán kết Wimbledon đầu tiên, tuy nhiên thất bại trước Angelique Kerber.[36]
2019
[sửa | sửa mã nguồn]Tại Giải quần vợt Úc Mở rộng 2019, Ostapenko là hạt giống thứ 22 nhưng thua ở vòng một trước Maria Sakkari.[37]
Thống kê sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Chung kết Grand Slam
[sửa | sửa mã nguồn]Kết quả | Năm | Giải | Mặt sân | Đối thủ | Tỉ số |
---|---|---|---|---|---|
Vô địch | 2017 | Pháp Mở rộng | Đất nện | Simona Halep | 4–6, 6–4, 6–3 |
Thành tích đơn Grand Slam
[sửa | sửa mã nguồn]VĐ | CK | BK | TK | V# | RR | Q# | A | NH |
Giải | 2014 | 2015 | 2016 | 2017 | 2018 | 2019 | SR | T–B | % thắng |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Úc Mở rộng | A | A | V1 | V3 | V3 | V1 | 0 / 4 | 4–4 | 50% |
Pháp Mở rộng | A | Q1 | V1 | VĐ | V1 | 1 / 3 | 7–2 | 78% | |
Wimbledon | A | V2 | V1 | TK | BK | 0 / 4 | 10–4 | 71% | |
Mỹ Mở rộng | A | V2 | V1 | V3 | V3 | 0 / 4 | 5–4 | 56% | |
Thắng-Thua | 0–0 | 2–2 | 0–4 | 15–3 | 9–4 | 0–1 | 1 / 15 | 26–14 | 65% |
Giải thưởng
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Giải thưởng |
---|---|
2014 | Ngôi sao triển vọng của Thể thao Latvia[38] |
2016 | WTA Tour Breakthrough of the Month (tháng 2) |
2017 | WTA Tour Breakthrough of the Month (tháng 5) |
2017 | Tay vợt tiến bộ nhất WTA Tour |
2017 | Nữ vận động viên Latvia của năm |
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Player Index: Jelena Ostapenko”. WTA (bằng tiếng Anh).
- ^ ngoài ra còn có Jeļena Jakovļeva (mẹ của cô), Anabel Medina Garrigues (2017), David Taylor (2018)
- ^ “Aļona Ostapenko: 'Neviens mani nav tā apmācījis. Tas vienkārši ir stils, kurā spēlēju'”. Latvijas Avīze (bằng tiếng Latvia). 12 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2017.
- ^ Jeļena Ostapenko tại Fed Cup
- ^ (tiếng Nga) Elena Ostapenko: Each victory in the tournament gave me confidence Lưu trữ 2017-07-12 tại Wayback Machine, Tennis Portal Ukraine (8 tháng 6 năm 2017)
- ^ “Ballroom Dance Fan Ostapenko Waltzes into Qatar Semis”. Yahoo! Sports (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2017.
- ^ admin (ngày 28 tháng 5 năm 2017). “Jelena Ostapenko”. WTA Tennis (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2017.
- ^ “Birthday girl Ostapenko blazing her own trail- Roland-Garros – The 2017 French Open – Official Site by IBM”. www.rolandgarros.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2017.
- ^ a b Rothenberg, Ben (ngày 9 tháng 7 năm 2017). “French Open champion Jelena Ostapenko doesn't want to be called by her legal name”. Economic Times. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2017.
- ^ “Aļona, Jeļena – ārzemju mediji mēģina tikt skaidrībā ar Ostapenko vārdu”. Latvijas Avīze (bằng tiếng Latvia). ngày 11 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2018.
- ^ “Ostapenko, from ballroom dancer to Grand Slam champion”. Times of India. AFP. ngày 10 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2017.
- ^ Harwitt, Sandra (ngày 6 tháng 7 năm 2014). “Rubin and Ostapenko score Wimbledon silver”. Liên đoàn quần vợt quốc tế. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2014.
- ^ Jeļena Ostapenko tại Liên đoàn quần vợt quốc tế – Thông tin tay vợt trẻ
- ^ Foley, Marcus (ngày 29 tháng 6 năm 2015). “Round-up: Jelena Ostapenko shocks Carla Suarez Navarro”. Eurosport. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2015.
- ^ “Wimbledon Day 5, 3rd Round Previews: Azarenka v Mladenovic, Stephens v Safarova”. Moo's Tennis Blog. ngày 2 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2015.
- ^ “Latest on US Open: Errani overcomes dizziness to win in 3”. U.S. News & World Report. ngày 3 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2015.
- ^ “Ostapenko wins her first ever U.S Open match and advances 2nd round”. The Baltic Course. ngày 2 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2015.
- ^ Ranking Watch: Ostapenko New Teen Titan, World Tennis Association, 29 tháng 2 năm 2016
- ^ Imhoff, Dan (ngày 8 tháng 7 năm 2016). “Watson into mixed doubles semi-finals”. Wimbledon.com. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2017.
- ^ “2017 results”. CBSSports.com. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2017.
- ^ “The Latest: Latvia's Ostapenko into French Open semifinals”. abc news. Associated Press. ngày 6 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2017.
- ^ Mitchell, Kevin (ngày 6 tháng 6 năm 2017). “Jelena Ostapenko sets up birthday treat with Timea Bacsinszky in Paris”. The Guardian. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2017.
- ^ “French Open 2017”. skysports.com. ngày 8 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2017.
- ^ Clarey, Christopher. "Jelena Ostapenko, Unseeded Latvian, Rallies to Win French Open". nytimes.com. 10 tháng 6 năm 2017
- ^ “French Open: Jelena Ostapenko beats Simona Halep to win first Grand Slam”. BBC Sport. ngày 10 tháng 6 năm 2017.
- ^ “On a day of firsts, unseeded Ostapenko reaches French Open final”. Tennis.com. ngày 8 tháng 6 năm 2017.
- ^ “French Open: Jelena Ostapenko beats Simona Halep to win first Grand Slam”. BBC Sport. ngày 10 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2017.
- ^ “Solid Ostapenko powers past Cirstea at US Open”. WTA Tennis. ngày 31 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2018.
- ^ “Kasatkina crushes Ostapenko in US Open third round”. WTA Tennis. ngày 2 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2018.
- ^ “Jelena Ostapenko upsets Garbine Muguruza to reach Wuhan Open semifinal”. Tennis.com. AP. ngày 28 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2018.
- ^ “China Open: Simona Halep world number one after win over Jelena Ostapenko”. BBC Sport. ngày 7 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2018.
- ^ “Jelena Ostapenko Overcomes Belinda Bencic in Indian Wells”. TENNIS.com. ngày 9 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2018.
- ^ “Indian Wells: Simona Halep avoids upset but Jelena Ostapenko & Petra Kvitova beaten”. BBC. ngày 12 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2018.
- ^ Kane, David (ngày 7 tháng 7 năm 2018). “Ostapenko dismisses Diatchenko, into Wimbledon second week”. WTA. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2018.
- ^ “Ostapenko into Wimbledon quarter-finals”. Sport24. ngày 9 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2018.
- ^ Livaudais, Stephanie (ngày 10 tháng 7 năm 2018). “Ostapenko overcomes Cibulkova for first Wimbledon semifinal”. WTA. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2018.
- ^ “Sizzling Sakkari solves Ostapenko in Melbourne”. ngày 14 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2019.
- ^ “Martins Dukurs and Anastasija Grigorjeva names Latvia's Athletes of the Year”. leta.lv. Truy cập 8 tháng 3 năm 2016.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Jeļena Ostapenko tại Hiệp hội quần vợt nữ
- Jeļena Ostapenko tại Liên đoàn quần vợt quốc tế
- Jeļena Ostapenko tại Fed Cup
- Jeļena Ostapenko Lưu trữ 2019-01-29 tại Wayback Machine tại Ủy ban Olympic Latvia (bằng tiếng Latvia)
- Jeļena Ostapenko tại Ủy ban Olympic Quốc tế
- Jeļena Ostapenko Lưu trữ 2019-01-29 tại Wayback Machine trên Olympics at Sports-Reference.com
- Sinh năm 1997
- Nhân vật còn sống
- Nữ vận động viên quần vợt Latvia
- Vô địch Pháp Mở rộng
- Vô địch Wimbledon trẻ
- Vô địch Grand Slam (quần vợt) đơn nữ
- Vô địch Grand Slam (quần vợt) đơn nữ trẻ
- Vận động viên quần vợt Thế vận hội Trẻ Mùa hè 2014
- Vận động viên quần vợt Thế vận hội Mùa hè 2016
- Vận động viên quần vợt Thế vận hội của Latvia
- Người Latvia gốc Ukraina