1. What Is Microfinance?
1
2. How effective is the microfinance model in Vietnam?( hiệu quả mô
hình tài chính vi mô ở Việt Nam như thế nào?) 2
Microfinance institutions play an important role in the socio-economic
development of rural areas. 2
Some salient features in the operation of microfinance programs and
projects: 2
Problems and solutions 4
Current problems facing microfinance organizations include: 4
Stemming from the above difficulties, in order to help microfinance
organizations develop in the new context, the author proposes some
specific solutions as follows: 5
3. Effective microfinance models in countries in the world and lessons for
Vietnam (Các mô hình tài chính vi mô hiệu quả ở các nước trên thế giới
và bài học cho VN) 7
4. Analyze the pros and cons of formal and informal credit institutions 15
5. Factors affecting the operation of official credit institutions. Which of
these factors do you think has a strong influence, and why? 17
6. Why saying low interest rate is not an effective tool to reduce poverty
in rural areas: 18
1. What Is Microfinance?
Microfinance, also called microcredit, is a type of banking service provided to unemployed
or low-income individuals or groups who otherwise would have no other access to financial
services.
Microfinance is the granting of very poor households with very small loans (called microcredit),
for the purpose of helping them engage in productive activities, or start businesses. small.
Microfinance often entails a series of other services such as credit, savings, and insurance,
because the poor and the very poor have a great need for financial products, but do not have
access to such services. official financial system.
Microfinance is different from microcredit in that: microfinance refers to activities of lending,
saving, insurance, transferring services and other financial products to a group of high-income
customers. short. Microcredit is simply a small loan, granted by a bank or other institution.
Microcredit is usually available to individuals, without collateral, or through group lending.
The poor, like everyone else, need a variety of financial instruments to accumulate wealth,
stabilize consumption, and protect themselves against risks. Therefore, in a broad sense,
microfinance is about finding an efficient and reliable way to offer more and more microfinance
products.
Tài chính vi mô là việc cấp cho các hộ gia đình rất nghèo các khoản vay rất nhỏ (gọi là tín
dụng vi mô), nhằm mục đích giúp họ tham gia vào các hoạt động sản xuất, hoặc khởi tạo các
hoạt động kinh doanh nhỏ. Tài chính vi mô thường kéo theo hàng loạt các dịch vụ khác như
tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm, vì những người nghèo và rất nghèo có nhu cầu rất lớn đối với
các sản phẩm tài chính, nhưng không tiếp cận được các thể chế tài chính chính thức.
Tài chính vi mô khác tín dụng vi mô ở chỗ: tài chính vi mô đề cập đến các hoạt động cho vay,
tiết kiệm, bảo hiểm, chuyển giao dịch vụ và các sản phẩm tài chính khác đến cho nhóm khách
hàng có thu nhập thấp. Tín dụng vi mô chỉ đơn giản là một khoản cho vay nhỏ, do ngân hàng
hoặc một tổ chức nào đó cấp. Tín dụng vi mô thường dành cho cá nhân vay, không cần tài sản
thế chấp, hoặc thông qua việc cho vay theo nhóm.
Người nghèo, cũng giống như tất cả mọi người, cần có nhiều loại công cụ tài chính để tích lũy
tài sản, bình ổn tiêu dùng và tự bảo vệ mình trước rủi ro. Chính vì thế, theo nghĩa rộng, tài chính
vi mô là việc tìm ra phương cách hiệu quả và đáng tin cậy để cung cấp ngày càng nhiều hơn các
sản phẩm tài chính vi mô.
1
2. How effective is the microfinance model in Vietnam?( hiệu quả mô hình tài chính
vi mô ở Việt Nam như thế nào?)
Microfinance institutions play an important role in the socio-economic development of rural
areas.
Some salient features in the operation of microfinance programs and projects:
Firstly, about credit activities: The activities of microfinance programs and projects focus on
micro-lending for the poor and low-income customer segments - who are difficult to access
products, commercial banking services. Therefore, microfinance programs and projects are
designed to suit this group of customers, specifically: Loan size per customer is small, ranging
from 5 million VND (for first-time borrowers) to VND 29 million (for customers with multiple
loans and good repayment history); lending interest rates from 1% to 8.3%/year.
All loans are unsecured, mainly based on a group guarantee mechanism (one group has about 5 to
7 member customers living in the same area). With the small loan size and the lending method
through group guarantee, most of the microfinance programs and projects have high recovery
rates, the overdue debt ratio remains low (average level is 1 million USD). 0.7%; 36
microfinance programs and projects have no overdue debt).
Secondly, about capital mobilization activities: Funds mobilized are mainly from receiving
funding and compulsory savings deposits of borrowers. Compulsory savings is a small, fixed
amount paid monthly or a certain percentage (about 1%) of the loan. Borrowers are usually
refunded the required savings when there is no outstanding loan balance or when they are no
longer a member of a microfinance program or project. Requiring borrowers to deposit a
periodical mandatory savings is a feature of microfinance activities not only in Vietnam but also
in other countries around the world, in order to create savings habits for the poor and those with
low income. low income.
Third, non-financial activities: Besides lending and savings products, microfinance programs and
projects also provide non-financial services to support member customers to study, exchange
experience in production - business, transfer of husbandry and cultivation techniques, increase
knowledge on household financial management as well as other social knowledge (nutrition, sex
health...) . Integrating non-financial activities into credit and savings group activities is one of the
strengths of microfinance programs and projects. Accordingly, customers of microfinance
institutions not only have access to financial products and services, but also improve their
production and business skills, and social knowledge, contributing to increasing job
opportunities. , increase income, gradually improve quality of life.
Thus, from a financial perspective, most of the microfinance programs and projects have
achieved operational sustainability (income > expenses), only 02 out of 69 microfinance
programs and projects have income. less than the cost.
2
From the perspective of social efficiency, microfinance programs and projects provide small
loans, mainly loans of less than 10 million VND. With a small loan size, equivalent to only about
one-eighth of current per capita income (equivalent to USD 3,521, about VND 80 million), it
shows that microfinance programs and projects have reached the right audience. poor people,
low-income people, creating effective capital channels, contributing to sustainable poverty
reduction and limiting black credit, especially in rural, remote and isolated areas.
It can be affirmed that microfinance organizations, microfinance programs and projects have
contributed an additional channel to provide production and business capital for the agricultural
and rural economic sector, thereby contributing to the development of the country. of financial
inclusion in Vietnam.
Các tổ chức tài chính vi mô có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của khu
vực nông thôn.
Một số đặc điểm nổi bật trong hoạt động của chương trình, dự án tài chính vi mô:
Thứ nhất, về hoạt động tín dụng: Hoạt động của các chương trình, dự án tài chính vi mô tập
trung vào lĩnh vực cho vay vi mô đối với phân khúc khách hàng là người nghèo, người có thu
nhập thấp - đối tượng khó tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng thương mại. Do đó, các
chương trình, dự án tài chính vi mô được thiết kế phù hợp với nhóm khách hàng này, cụ thể: Quy
mô khoản vay trên mỗi khách hàng nhỏ, từ 5 triệu đồng (đối với khách hàng vay lần đầu) đến 29
triệu đồng (đối với khách hàng vay nhiều lần và có lịch sử trả nợ tốt ); lãi suất cho vay từ 1%
đến 8,3% / năm.
Tất cả các khoản vay đều không có thế chấp, chủ yếu dựa trên cơ chế bảo lãnh theo nhóm (một
nhóm có khoảng 5 đến 7 khách hàng thành viên cùng sinh sống trên địa bàn). Với quy mô cho
vay nhỏ và hình thức cho vay thông qua bảo lãnh nhóm, hầu hết các chương trình, dự án tài
chính vi mô đều có tỷ lệ thu hồi cao, tỷ lệ nợ quá hạn ở mức thấp (bình quân 1 triệu USD). 0,7%;
36 chương trình, dự án tài chính vi mô không có nợ quá hạn).
Thứ hai, về hoạt động huy động vốn: Nguồn vốn huy động chủ yếu từ hoạt động nhận tài trợ và
tiền gửi tiết kiệm bắt buộc của khách hàng vay vốn. Tiết kiệm bắt buộc là một số tiền nhỏ, cố định
được trả hàng tháng hoặc một tỷ lệ nhất định (khoảng 1%) của khoản vay. Người đi vay thường
được hoàn trả khoản tiết kiệm cần thiết khi không còn dư nợ hoặc khi họ không còn là thành viên
của một chương trình hoặc dự án tài chính vi mô. Yêu cầu người vay phải gửi tiền tiết kiệm bắt
buộc định kỳ là đặc điểm của hoạt động tài chính vi mô không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các nước
trên thế giới, nhằm tạo thói quen tiết kiệm cho người nghèo và người có thu nhập thấp. thu nhập
thấp.
Thứ ba, hoạt động phi tài chính: Bên cạnh các sản phẩm cho vay và tiết kiệm, các chương trình,
dự án tài chính vi mô còn cung cấp các dịch vụ phi tài chính nhằm hỗ trợ khách hàng thành viên
học tập, trao đổi kinh nghiệm sản xuất - kinh doanh, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt,
3
nâng cao kiến thức quản lý tài chính hộ gia đình. cũng như các kiến thức xã hội khác (dinh
dưỡng, sức khỏe giới tính…). Lồng ghép các hoạt động phi tài chính vào hoạt động nhóm tín
dụng và nhóm tiết kiệm là một trong những thế mạnh của các chương trình, dự án tài chính vi
mô. Theo đó, khách hàng của tổ chức tài chính vi mô không chỉ được tiếp cận các sản phẩm, dịch
vụ tài chính mà còn được nâng cao kỹ năng sản xuất kinh doanh, kiến thức xã hội, góp phần gia
tăng cơ hội việc làm. , nâng cao thu nhập, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống.
Như vậy, ở góc độ tài chính, hầu hết các chương trình, dự án tài chính vi mô đều đạt được tính
bền vững trong hoạt động (thu nhập> chi phí), chỉ có 02/69 chương trình, dự án tài chính vi mô
có thu nhập. ít hơn chi phí.
Dưới góc độ hiệu quả xã hội, các chương trình, dự án tài chính vi mô cho vay nhỏ, chủ yếu là
các khoản vay dưới 10 triệu đồng. Với quy mô khoản vay nhỏ, chỉ bằng khoảng 1/8 thu nhập bình
quân đầu người hiện nay (tương đương 3.521 USD, khoảng 80 triệu đồng), cho thấy các chương
trình, dự án tài chính vi mô đã đến được đúng đối tượng. người nghèo, người thu nhập thấp, tạo
kênh dẫn vốn hiệu quả, góp phần giảm nghèo bền vững, hạn chế tín dụng đen, nhất là vùng nông
thôn, vùng sâu, vùng xa.
Có thể khẳng định, các tổ chức tài chính vi mô, các chương trình, dự án tài chính vi mô đã góp
thêm một kênh cung cấp vốn sản xuất kinh doanh cho khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn,
góp phần vào sự phát triển của đất nước. bao gồm tài chính ở Việt Nam.
Problems and solutions
Current problems facing microfinance organizations include:
Firstly, microfinance institutions are not allowed to perform payment operations, so the
expansion of distribution channels based on technology cannot be effective. Meanwhile, the cost
of technology investment is very large, beyond the capacity of microfinance institutions
Second, microfinance organizations also face difficulties in terms of customers and loan levels. If
according to Circular No. 03/2018/TT-NHNN dated February 23, 2018 of the Governor of the
State Bank of Vietnam, stipulating that "Total outstanding loans of a microfinance institution to
another customer must not exceed 100 million VND" , then this loan level is considered to be
quite modest with the goal of totalizing the audience. Circular No. 03/2018/TT-NHNN also does
not stipulate that microfinance customers include “low-income” people as stipulated in the Law
on Credit Institutions 2010 leading to difficulties for microfinance institutions in opening a wide
target audience.
Third, with the current scope of activities (mainly accepting savings and loans), microfinance
institutions have difficulty in diversifying products and services to suit customers' needs. The
regulations on new establishment, transformation of microfinance programs and projects need to
be studied and reviewed to be suitable with current conditions and more feasible.
4
Fourth, there should be training and education programs in a methodical manner on financial
knowledge, so that it can be widely disseminated to a large number of classes, so that even
children sitting in school can benefit from it. equipped with the most basic financial knowledge,
helping to absorb and use financial products and services faster and more efficiently.
Stemming from the above difficulties, in order to help microfinance organizations develop
in the new context, the author proposes some specific solutions as follows:
Firstly, in order to develop microfinance effectively, it is necessary to stick to the objectives of
the National Financial Inclusion Strategy, including completing the legal framework, reviewing
and amending the Law on Credit Institutions, and other regulations. regulations related to the
organization and operation of microfinance institutions, thereby removing difficulties and
obstacles and creating conditions for the development of microfinance programs and projects in a
more sustainable direction, contributing positively to financial development comprehensively in
Vietnam.
Secondly, the State Bank can create favorable conditions that can be considered to allow
microfinance institutions to open payment accounts for customers, especially microfinance
institutions with Core Banking application. At the same time, adjusting the regulations on the
maximum balance limit per customer and the outstanding balance for other groups of customers,
amending Circular No. 03/2018/TT-NHNN to add "low income" subjects. to be in line with the
provisions of the Law on Credit Institutions to promote the development of microfinance
organizations, programs and projects serving the poor, low-income people, women and
micro-enterprises, flexible and appropriate financial products and services in a safe, effective and
sustainable manner.
Third, develop and revise the legal framework for microfinance in Vietnam in order to implement
the principles outlined in the National Financial Inclusion Strategy, Vietnam Banking Industry
Development Strategy to promote fair competition. and cooperate according to market principles.
This will also align Vietnam's regulatory framework with global best practices; promote the
enhancement of people's financial inclusion. At the same time, support the move towards an
appropriate, encouraging legal framework; arouse the interest of foreign investors and donors in
the field of microfinance in Vietnam.
Fourth, microfinance organizations need to focus on expanding their scope of activities to
increase access to microfinance services for people, especially in rural and mountainous areas;
diversify products, cooperate with credit institutions and Fintech to increase access to financial
services for people, innovate the technology system
Các vấn đề và giải pháp
Các vấn đề hiện tại mà các tổ chức tài chính vi mô đang gặp phải bao gồm:
Thứ nhất, các tổ chức tài chính vi mô không được phép thực hiện nghiệp vụ thanh toán nên việc
5
mở rộng kênh phân phối dựa trên công nghệ không thể phát huy hiệu quả. Trong khi đó, chi phí
đầu tư công nghệ rất lớn, vượt quá khả năng của các tổ chức tài chính vi mô
Thứ hai, các tổ chức tài chính vi mô cũng gặp khó khăn về đối tượng khách hàng và mức cho
vay. Nếu theo Thông tư số 03/2018 / TT-NHNN ngày 23/02/2018 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam quy định “Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tài chính vi mô đối với khách
hàng khác không quá 100 triệu đồng” thì mức
vay này được đánh giá là khá khiêm tốn với mục tiêu là tổng đối tượng. Thông tư số 03/2018 /
TT-NHNN cũng không quy định khách hàng tài chính vi mô là người có thu nhập thấp như quy
định tại Luật Các tổ chức tín dụng 2010, dẫn đến khó khăn cho tổ chức tài chính vi mô trong
việc mở rộng đối tượng.
Thứ ba, với quy mô hoạt động hiện nay (chủ yếu là nhận gửi tiết kiệm và cho vay), các tổ chức
tài chính vi mô gặp khó khăn trong việc đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhu cầu của
khách hàng. Các quy định về thành lập mới, chuyển đổi chương trình, dự án tài chính vi mô cần
được nghiên cứu, rà soát để phù hợp với điều kiện hiện nay và khả thi hơn.
Thứ tư, cần có chương trình đào tạo, giáo dục kiến thức tài chính một cách bài bản, phổ biến
rộng rãi đến đông đảo các tầng lớp, để ngay cả trẻ em đang ngồi trên ghế nhà trường cũng được
hưởng lợi. được trang bị những kiến thức tài chính cơ bản nhất, giúp tiếp thu và sử dụng các sản
phẩm, dịch vụ tài chính nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Xuất phát từ những khó khăn trên, để giúp các tổ chức tài chính vi mô phát triển trong bối
cảnh mới, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, để phát triển tài chính vi mô hiệu quả, cần bám sát các mục tiêu của Chiến lược hòa
nhập tài chính quốc gia, bao gồm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, rà soát, sửa đổi Luật Các tổ
chức tín dụng và các quy định khác. các quy định liên quan đến tổ chức và hoạt động của tổ chức
tài chính vi mô, từ đó tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện phát triển chương trình, dự án
tài chính vi mô theo hướng bền vững hơn, góp phần tích cực vào phát triển tài chính toàn diện ở
Việt Nam.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước có thể tạo điều kiện thuận lợi, có thể xem xét cho phép các tổ
chức tài chính vi mô được mở tài khoản thanh toán cho khách hàng, đặc biệt là các tổ chức tài
chính vi mô có ứng dụng CoreBanking. Đồng thời, điều chỉnh quy định về giới hạn số dư tối đa
cho mỗi khách hàng và dư nợ đối với các nhóm khách hàng khác, sửa đổi Thông tư số 03/2018 /
TT-NHNN để bổ sung thêm đối tượng “thu nhập thấp”. phù hợp với quy định của Luật các tổ
chức tín dụng nhằm thúc đẩy sự phát triển của tổ chức tài chính vi mô, chương trình, dự án phục
vụ người nghèo, người thu nhập thấp, phụ nữ và doanh nghiệp siêu nhỏ, sản phẩm, dịch vụ tài
chính linh hoạt, phù hợp, an toàn; một cách hiệu quả và bền vững.
Thứ ba, xây dựng và sửa đổi khuôn khổ pháp lý về tài chính vi mô tại Việt Nam nhằm thực hiện
các nguyên tắc được nêu trong Chiến lược bao trùm tài chính quốc gia, Chiến lược phát triển
6
ngành ngân hàng Việt Nam nhằm thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng. và hợp tác theo nguyên tắc thị
trường. Điều này cũng sẽ điều chỉnh khung pháp lý của Việt Nam với các thông lệ tốt nhất trên
toàn cầu; thúc đẩy việc nâng cao khả năng hòa nhập tài chính của người dân. Đồng thời, ủng
hộ việc hướng tới một khuôn khổ pháp lý phù hợp, khuyến khích; khơi dậy sự quan tâm của các
nhà đầu tư, nhà tài trợ nước ngoài đối với lĩnh vực tài chính vi mô tại Việt Nam.
Thứ tư, các tổ chức tài chính vi mô cần tập trung mở rộng phạm vi hoạt động để tăng khả năng
tiếp cận dịch vụ tài chính vi mô cho người dân, nhất là khu vực nông thôn, miền núi; đa dạng hóa
sản phẩm, hợp tác với các tổ chức tín dụng, Fintech để tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính
cho người dân, đổi mới hệ thống công nghệ
3. Effective microfinance models in countries in the world and lessons for Vietnam (Các mô
hình tài chính vi mô hiệu quả ở các nước trên thế giới và bài học cho VN)
Indonesia's experience
Indonesia is an agricultural country with the largest Muslim population in the world. The country
has been facing a persistent poverty problem for decades. In 2014, over 28 million Indonesians
lived below the poverty line, representing 11.3% of the national population (World Bank, 2015).
In this country, Islamic microfinance institutions (Islamic) are financial institutions that mainly
provide capital to the poor, especially in agricultural areas, whose people follow Islam; It is these
organizations that play an important role in solving the problem of poverty in the agricultural
sector in Indonesia.
The development of Islamic microfinance institutions, started with the establishment and
development of Islamic banks in the Middle East in the 1960s (Ainley et al., 2007) A
combination of Islamic finance and microfinance were thoroughly discussed by Rahul and
Sapcanin in 1999 (Akhter et al., 2009); at the same time, with Abdouli's (1991) study, there are
three principles of Islamic financial contracts that microfinance institutions can rely on and build
successful microfinance institutions; which is (1) mudarabah (profit sharing); (2) musyarakah
(joint venture) and, (3) murabahah (cost plus interest). Of the three principles above,
muadarabah and musyarakah are forms of financing through equity
investment; while murabahah is a form of capital financing based on a borrowing relationship.
During the global financial crises (1997; 2008), microfinance institutions showed little effect on
economic shocks and sudden changes in macroeconomic policies; This spurred commercial
banks in Indonesia to start investing in the capital market for microfinance institutions. Example:
Danamon Bank has started to participate in the micro-capital market since 2004 and has rapidly
grown to become one of the 5 largest banks in Indonesia. It is the participation of commercial
banks that makes the operation of microfinance institutions more favorable and competitive
compared to other investment programs (Sunarto and Nberg, 2007). In the period before the
2008 crisis, interest rates that microfinance institutions agreed with commercial banks in
7
Indonesia fluctuated between 12-13%/year; while other customers have to pay up to
20-24%/year.
The strength in the link between microfinance institutions and commercial banks in Indonesia is
that microfinance institutions are guaranteed in terms of investment capital, especially with good
quality microfinance institutions. , high probability of success; Meanwhile, commercial banks
will feel more secure when providing capital to microfinance institutions with a low level of risk,
because the microfinance institutions associated with those banks have experience. worked,
cooperated, selected microfinance institutions in the past.
Experience of Bangladesh
Over the past 30 years, Bangladesh has shown solid success in reducing poverty in the country;
from poverty rate up to 57% of the population in the period 1991-1992, to 32% in 2010; with an
average reduction rate of about 1.25%/year. Meanwhile, the extreme poverty rate2 in
Bangladesh decreased from 41% to 18%, in the same period. There are many factors that reduce
the poverty rate in Bangladesh, such as the expansion of the people's safe zone, the decrease in
crime rate, disputed areas, war; an increase in real income; GDP growth… (World Bank, 2013).
Regarding the role of microfinance institutions in the country, Zaidi (2017), Khandker and
Samad (2014) said that, with different stages of development, Bangladesh witnessed a change in
attracting capital from microfinance institutions in this country, to finance economic
development purposes.
Due to the competitive environment among microfinance institutions, it is imperative for these
institutions to cut transaction costs, financing costs and operating costs; These organizations even
offer preferential loan packages with low interest rates and also lower penalties for those who fail
to repay loans. It was the introduction of easy loan terms that encouraged poor individuals and
households in Bangladesh to borrow more, but also put pressure on the lending resources of
microfinance institutions (McIntosh, 2008). ).
Research by McIntosh and Wydick (2005) shows that microfinance institutions in Bangladesh
tend to cross-finance between lenders, they use high profits obtained from good, capable
projects. repayment capacity to compensate poorer borrowers.
However, when microfinance institutions are new to the market, they need to create
competition to benefit more promising investment projects, so they reduce lending rates for
banks. this project. This has made other projects unable to access capital, unable to implement
projects as planned. In addition, the research team also said that in the community of
microfinance institutions. and beneficiaries, there is still the problem of information asymmetry,
when there is a clear division of information sources, ability to access capital, lending
mechanism, preferential mechanism for training and retraining. among large groups of lenders.
Despite these operational difficulties, the number of microfinance institutions in Bangladesh
8
has increased rapidly, from 50 in 1985 to 750 in 2005; By 2016, the number of microfinance
institutions operating in Bangladesh was close to 1,500 (CDF, 2017-including formal
institutions). In addition, the services provided by these institutions are nationwide, with over
90% of villages in Bangladesh having
access to at least one microfinance institution.
THAILAND
Over the past six decades, Thailand has risen to become a developing country, with a steady
growth rate and a stable economy, with many sound economic and social development plans. and
sustainable. It is these plans that are the driving force for economic development, promoting the
development of industries in this country. As a result, the Thai economy has become one of the
fastest in the world, with GDP per capita growing by more than 10% per year during the 1990s
(P. G. Warr, 2000). ; In the period 1988-2017, the poverty rate in this country dropped a record
from 65.17% of the population (34.2 million people) to 7.9% (5.47 million people). (Warr, 2011;
NESDB, 2015; ADB, 2019).
In Thailand, the main source of capital for microfinance institutions for poor households is the
government, with a history of financing microfinance projects for more than 30 years (Bird et al.
associates, 2011; Fongthong and Suriya, 2014). The Thai government has been supporting
farmers since 1966 through a government-authorized bank to finance farmers' investment and
business (Siamwalla et al., 1990). Subsequently, the government established and launched the
Bank for Agriculture and Agricultural Cooperatives of Thailand (BAAC3), to provide loans to
agricultural households and cooperatives. agriculture in this country. The main purpose of BAAC
is to offer preferential loan packages with reasonable interest rates to improve the quality of life
of farmers (Aditto, 2016; Menkhoff and Rungruxsirivorn, 2011). Even in 1975, the Central Bank
of Thailand (BOT4) even issued a memorandum of understanding specifically for commercial
banks in this country, requiring all banks to set aside at least 5% of the total loan capital. intended
for agricultural households (Siamwalla et al., 1990). The positive thing is, the Central Bank of
Thailand has succeeded in requiring commercial banks to finance agricultural projects, at
preferential interest rates (Aditto, 2016; Yostrakul, 2018). However, Yostrakul (2018) finds that
many rural households are still heavily dependent on formal credit sources; Therefore, the 12th
National Economic and Social Development Commission of Thailand5, with its 2017-2036
strategy clearly defined the role of microfinance institutions in helping individuals, Poor
households have access to financial services and ancillary services for socio-economic
development, reducing the gap between rich and poor.
In Thailand, access to formal financial services is not enough, so many people in need of
capital in this country have sought loans from microfinance institutions;
that the semi-formal (semi-formal) form of microfinance institutions are most interested by the
9
people; That is, Thai people often turn to cooperatives, village funds (VFs) or savings for
products (SGPs). However, the reality shows that even the capital sources from this source have
not really met the needs of the people; Therefore, the Thai Ministry of Finance is considering
providing financial services to low-income people, based on three forms: (i) allowing
experienced foreign investors to start leading microfinance activities in Thailand; (ii) allow
commercial banks to link up with third parties who are experts in microfinance, and related
foreign investors; (iii) enable commercial banks to implement microfinance programs through
different objectives.0
LESSONS LEARNED
Through studying the operating experience of microfinance institutions in Indonesia,
Bangladesh and Thailand, combined with the actual operation of microfinance institutions in
Vietnam, the author proposes some lessons. related activities, in order to help microfinance
institutions in Vietnam better perform their activities, which are:
Firstly, it is necessary to create favorable conditions for microfinance to operate, especially to
maintain interest rates and inflation rates at an appropriate level. The absence of a stable macro
environment will negatively affect the development of the economy in general and the
operation of microfinance in particular.
Secondly, microfinance is an effective measure to reverse poverty and the vulnerability of the
poor when supplemented with other interventions such as legal training, as well as soft skills.
other to improve loan efficiency…. However, reality shows that microfinance institutions cannot
fully take on this service provision role; which is usually best done by the microfinance
institution in conjunction with a third party to do the work.
Thirdly, depending on the size and maturity of the microfinance institutions, scaling up or
scaling up is applied. In addition, the feedback of customers using the service, the close
supervision and management of that microfinance institution also play an equally important role.
When microfinance institutions grow up, they will be willing to change their products and
services to be more suitable for the market; or create other products and services according to
new trends.
Fourthly, government intervention is required to promote the operation of microfinance. Reality
in Indonesia, Thailand and Bangladesh shows that, in the early stages of development,
microfinance institutions do not operate according to the legal framework; or have no capital to
operate; Therefore, there is a need for encouragement and support from the government so that
these organizations can survive and develop rapidly. Support can be from providing working
capital; promote and create a close image to the public; or through mandatory programs. In
Vietnam, with a high proportion of the population in the middle and below average living
standards, in many places it is still very difficult for commercial banks to access capital; The
10
promotion of the development of microfinance institutions is very necessary, in order to improve
people's living standards and reduce the gap between rich and poor in society.
Fifthly, take advantage of savings in the population to have capital for microfinance institutions
to implement development programs and projects in service of society. Experiences in countries
such as Indonesia, Bangladesh and Thailand show that it is advisable to take advantage of capital
mobilized from individuals and households who have been or are about to participate in the
activities of microfinance institutions; thereby helping these organizations have capital to invest
in new projects. If the members of the organization contribute capital to invest or lend, they will
be very interested in the microfinance institution; Because usually microfinance institutions often
operate in the area near where they live, in order to take advantage of their loyal customer
network. It is this in the long run that will help microfinance programs and projects grow
stronger, reducing costs such as interest costs, project control costs, etc.
Kinh nghiệm của Indonesia
Indonesia là một quốc gia nông nghiệp với tỷ lệ dân là người đạo Hồi lớn nhất thế giới. Quốc
gia này đã và đang đối mặt với vấn đề nghèo đói dai dẳng qua các thập kỷ. Vào năm 2014, trên
28 triệu người Indonesia sống dưới mức nghèo khó, chiếm tỷ lệ 11,3% số dân toàn quốc (World
Bank, 2015). Tại quốc gia này, các tổ chức tài chính vi mô đạo Hồi (Islamic) là các tổ chức tài
chính chủ yếu cung cấp các nguồn
vốn cho các đối tượng người nghèo, đặc biệt ở những vùng nông nghiệp, mà có người dân theo
đạo Hồi; chính các tổ chức này đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết vấn đề đói nghèo
ở khu vực nông nghiệp ở Indonesia.
Sự phát triển của các tổ chức tài chính vi mô đạo Hồi, được bắt đầu từ sự thành lập và phát triển
của các ngân hàng đạo Hồi tại Trung Đông từ những năm 1960 (Ainley và các cộng sự, 2007) Sự
kết hợp của tài chính đạo Hồi và tài chính vi mô được thảo luận kỹ lưỡng bởi Rahul và Sapcanin
vào năm 1999 (Akhter và các cộng sự, 2009); đồng thời, với nghiên cứu của Abdouli (1991), có
ba nguyên tắc hợp đồng tài chính đạo Hồi mà các tổ chức tài chính vi mô có thể dựa vào và xây
dựng được các tổ chức tài chính vi mô thành công; đó là (1) mudarabah (chia sẻ lợi nhuận); (2)
musyarakah (liên doanh) và, (3) murabahah (chi phí cộng lãi). Trong ba nguyên tắc trên,
muadarabah và musyarakah là hình thức tài trợ thông qua đầu tư vốn cổ phần; trong khi
murabahah là hình thức tài trợ vốn dựa vào quan hệ vay mượn.
Trong các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (năm 1997; năm 2008), các tổ chức tài chính vi
mô cho thấy ít bị ảnh hưởng bởi các cú sốc kinh tế và các chính sách kinh tế vĩ mô thay đổi đột
ngột; điều này đã thúc đẩy các ngân hàng thương mại tại Indonesia và bắt đầu tham gia đầu tư
vào thị trường vốn dành cho các tổ chức tài chính vi mô. Ví dụ: Ngân hàng Danamon đã bắt đầu
tham gia vào thị trường vốn vi mô từ năm 2004 và đã nhanh chóng lớn mạnh, trở thành một
trong 5 ngân hàng lớn nhất Indonesia. Chính việc tham gia của các ngân hàng thương mại đã
11
làm cho hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô được thuận lợi và trở nên cạnh tranh hơn so
với các chương trình đầu tư khác (Sunarto và Nberg, 2007). Trong giai đoạn trước cuộc khủng
hoảng 2008, lãi suất mà tổ chức tài chính vi mô thỏa thuận với các ngân hàng thương mại tại
Indonesia dao động trong khoảng 12-13%/năm; trong khi với các khách hàng khác phải trả lên
đến 20-24%/ năm.
Điểm mạnh trong việc liên kết giữa tổ chức tài chính vi mô và các ngân hàng thương mại tại
Indonesia là tổ chức tài chính vi mô được đảm bảo về lượng vốn đầu tư, đặc biệt với tổ chức tài
chính vi mô có chất lượng tốt, khả năng thành công cao; trong khi đó, các ngân hàng thương
mại sẽ yên tâm hơn khi cấp vốn cho tổ chức tài chính vi mô với mức độ rủi ro thấp, do các tổ
chức tài chính vi mô có liên kết với các ngân hàng đó đã có kinh nghiệm làm việc, hợp tác, lựa
chọn các tổ chức tài chính vi mô trong quá khứ.
Kinh nghiệm của Bangladesh
Trong vòng 30 năm qua, Bangladesh đã cho thấy sự thành công vững chắc trong việc giảm tỷ
lệ đói nghèo tại quốc gia này; từ tỷ lệ đói nghèo lên đến 57% dân số trong giai đoạn
1991-1992, xuống còn 32% năm 2010; với bình quân tỷ lệ giảm khoảng 1,25%/ năm. Trong
khi đó, tỷ lệ đói nghèo cùng cực2 tại Bangladesh đã giảm từ 41% xuống còn 18%, cũng trong
giai đoạn trên. Có rất nhiều yếu tố làm
giảm tỷ lệ đói nghèo tại Bangladesh, như sự mở rộng của phạm vi an toàn của người dân, tỷ lệ
tội phạm, khu vực tranh chấp, chiến tranh giảm xuống; sự tăng lên của thu nhập thực; tăng
trưởng GDP,… (World Bank, 2013).
Về vai trò của tổ chức tài chính vi mô tại nước này, Zaidi (2017), Khandker và Samad (2014)
cho rằng, với các giai đoạn phát triển khác nhau, Bangladesh chứng kiến sự thay đổi về việc thu
hút nguồn vốn của tổ chức tài chính vi mô tại quốc gia này, nhằm tài trợ cho mục đích phát triển
kinh tế.
Do môi trường cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính vi mô, buộc các tổ chức này cần cắt giảm
các chi phí giao dịch, chi phí tài chính và chi phí hoạt động; thậm chí các tổ chức này còn đưa
ra các gói vay ưu đãi với lãi suất thấp và cũng hạ mức hình phạt đối với các đối tượng không
trả được khoản vay. Chính việc đưa ra các điều khoản cho vay dễ dàng đã khuyến khích cá
nhân và hộ gia đình nghèo ở Bangladesh vay vốn nhiều hơn, nhưng cũng tạo áp lực về nguồn
vốn cho vay của các tổ chức tài chính vi mô (McIntosh, 2008).
Nghiên cứu của McIntosh và Wydick (2005) cho thấy, các tổ chức tài chính vi mô ở Bangladesh
có xu hướng đảo chéo nguồn tài chính giữa những người cho vay, họ
dùng lợi nhuận cao thu được từ những dự án tốt, có khả năng trả nợ để bù đắp cho các khách
hàng vay nghèo hơn. Tuy nhiên, khi tổ chức tài chính vi mô mới tham gia thị trường, họ cần tạo
sự cạnh tranh để có lợi hơn cho với các khoản dự án đầu tư có triển vọng, vì thế họ giảm bớt lợi
suất cho vay đối với các dự án này. Chính điều này đã làm cho các dự án khác không thể tiếp
12
cận được nguồn vốn, không thể triển khai được các dự án như kế hoạch. Ngoài ra, nhóm nghiên
cứu còn cho rằng, trong cộng đồng tổ chức tài chính vi mô. và đối tượng thụ hưởng, còn tồn tại
vấn đề bất cân xứng thông tin, khi có sự phân chia rõ rệt về nguồn thông tin khả năng tiếp cận
nguồn vốn, về cơ chế cho vay, cơ chế ưu đãi về đào tạo, bồi dưỡng giữa những nhóm đối tượng
người cho vay lớn.
Mặc dù có những khó khăn trong quá trình hoạt động như vậy, nhưng số lượng các tổ chức tài
chính vi mô tại Bangladesh vẫn gia tăng rất nhanh, từ 50 tổ chức năm 1985, lên 750 tổ chức năm
2005; đến năm 2016, số lượng các tổ chức tài chính vi mô đang hoạt động tại Bangladesh lên
đến gần 1.500 tổ chức (CDF, 2017-gồm cả tổ chức chính thức). Bên cạnh đó, dịch vụ mà các tổ
chức cung cấp tại đây đã phủ rộng khắp cả nước, với trên 90% số làng xã ở Bangladesh đã tiếp
cận ít nhất một tổ chức tài chính vi mô.
Thái Lan
Trong vòng sáu thập kỷ qua, Thái Lan đã vươn lên trở thành một quốc gia đang phát triển, với
tốc độ phát triển vững chắc và nền kinh tế đi vào ổn định, với nhiều kế hoạch phát triển kinh tế,
xã hội đúng đắn và bền vững. Chính những kế hoạch là động lực để phát triển kinh tế, thúc đẩy
phát triển các ngành công nghiệp ở quốc gia này. Kết quả là, nền kinh tế Thái Lan trở thành một
trong các quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới, với GDP bình quân tăng trên
10%/năm trong giai đoạn những năm 1990 (P. G. Warr, 2000); trong giai đoạn 1988-2017, tỷ lệ
đói nghèo tại quốc gia này giảm kỷ lục từ mức 65,17% dân số (tương ứng 34,2 triệu người)
xuống còn 7,9% (tương ứng 5,47 triệu người) (Warr, 2011; NESDB, 2015; ADB, 2019).
Ở Thái Lan, chủ thể cung cấp vốn chủ yếu cho tổ chức tài chính vi mô cho các hộ gia đình
nghèo là chính phủ, với bề dày tài trợ cho các dự án tài chính vi mô lên đến hơn 30 năm (Bird
và các cộng sự, 2011; Fongthong và Suriya, 2014). Chính phủ Thái Lan đã hỗ trợ cho nông
dân nước này từ năm 1966 thông qua ngân hàng
được chính phủ ủy quyền để tài trợ cho nông dân đầu tư sản xuất kinh doanh (Siamwalla và các
cộng sự, 1990). Sau đó, chính phủ nước này đã thành lập và đưa vào hoạt động ngân hàng dành
cho nông nghiệp và Hợp tác xã nông nghiệp Thái Lan (BAAC3), nhằm cung cấp các khoản vay
cho các hộ gia đình nông nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp ở quốc gia này. Mục đích chính của
BAAC là đưa ra các gói vay ưu đãi với lãi suất hợp lý nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của
đối tượng nông dân (Aditto, 2016; Menkhoff và Rungruxsirivorn, 2011). Thậm chí, năm 1975
Ngân hàng Trung ương Thái Lan (BOT4) còn đưa ra bản ghi nhớ dành riêng đối với các ngân
hàng thương mại nước này, yêu cầu các ngân hàng đều phải dành ra ít nhất 5% tổng số vốn cho
vay ra dành cho các hộ gia đình nông nghiệp (Siamwalla và các cộng sự, 1990). Điều tích cực
là, Ngân hàng Trung ương Thái Lan đã thành công khi yêu cầu các ngân hàng thương mại phải
cấp vốn cho các dự án nông nghiệp, với mức lãi suất ưu đãi (Aditto, 2016; Yostrakul, 2018). Tuy
nhiên, Yostrakul (2018) nhận thấy, rất nhiều hộ gia đình khu vực nông thôn vẫn phụ thuộc rất
lớn vào các nguồn tín dụng chính thống; chính vì thế, Ủy ban Phát triển kinh tế và xã hội quốc
13
gia Thái Lan5 lần thứ 12, với chiến lược giai đoạn 2017-2036 đã xác định rõ vai trò của các tổ
chức tài chính vi mô trong việc giúp các cá nhân, hộ gia đình nghèo được tiếp cận các dịch vụ
tài chính, dịch vụ phụ trợ nhằm phát triển kinh tế xã hội, giảm chênh lệch giàu nghèo.
Tại Thái Lan, việc tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thức là không đủ, vì thế rất nhiều đối
tượng cần vốn tại quốc gia này đã tìm đến vay vốn từ các tổ chức tài chính vi mô; mà hình thức
bán chính thức (semi-formal) tổ chức tài chính vi mô được người dân quan tâm hơn cả; tức là
người dân Thái Lan thường hướng đến các hợp tác xã, các quỹ thôn làng (VFs) hay các quỹ tiết
kiệm cho sản phẩm (SGPs). Tuy nhiên, thực tế cho thấy kể cả các nguồn vốn từ nguồn này cũng
chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của người dân; vì thế Bộ Tài chính Thái Lan đang xem xét
đến vệc cung cấp các dịch vụ tài chính dành cho các đối tượng có thu nhập thấp, dựa trên ba
hình thái: (i) cho phép các nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm bắt đầu các hoạt động tài
chính vi mô tại Thái Lan; (ii) cho phép các ngân hàng thương mại liên kết với các bên thứ ba là
các chuyên gia về tài chính vi mô, và các nhà đầu tư nước ngoài có liên quan; (iii) cho phép các
ngân hàng thương mại thực hiện các chương trình tài chính vi mô thông qua các mục tiêu khác
nhau.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm hoạt động của tổ chức tài chính vi mô tại Indonesia,
Bangladesh và Thái Lan, kết hợp với thực tế hoạt động của tổ chức tài chính vi mô tại Việt
Nam, tác giả đề xuất một số bài học có liên quan, nhằm giúp tổ chức tài chính vi mô tại Việt
Nam thực hiện được tốt hơn các hoạt động, đó là:
Thứ nhất, cần tạo điều kiện môi trường thuận lợi để tài chính vi mô được hoạt động, đặc biệt
cần duy trì mức lãi suất và tỷ lệ lạm phát ở mức phù hợp. Việc thiếu vắng môi trường vĩ mô ổn
định sẽ tác động tiêu cực đến phát triển nền kinh tế nói chung và với hoạt động của tài chính vi
mô nói riêng.
Thứ hai, tài chính vi mô là biện pháp hiệu quả để đẩy lùi đói nghèo và tình trạng tổn thương
của người nghèo khi được bổ sung với các biện pháp can thiệp khác như: đào tạo về luật pháp,
cũng như các kỹ năng mềm khác để nâng cao hiệu quả đồng vốn vay…. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy tổ chức tài chính vi mô không thể hoàn toàn đảm nhận vai trò cung cấp dịch vụ này; mà
thông thường tốt hơn hết là tổ chức tài chính vi mô đó nên kết hợp với một đối tác thứ ba để
đảm nhiệm công việc đó.
Thứ ba, tùy thuộc vào quy mô, độ trưởng thành của các tổ chức tài chính vi mô mà việc nhân
rộng mô hình hoặc mở rộng quy mô được áp dụng. Ngoài ra, sự phản hồi của khách hàng sử
dụng dịch vụ, việc giám sát, quản lý sát sao tổ chức tài chính vi mô đó cũng có vai trò không
kém. Khi tổ chức tài chính vi mô lớn mạnh lên, họ sẽ
sẵn sàng thay đổi các sản phẩm, dịch vụ sao có phù hợp hơn với thị trường; hoặc tạo ra các
sản phẩm, dịch vụ khác theo xu hướng mới.
14
Thứ tư, cần có sự can thiệp của chính phủ để thúc đẩy sự hoạt động của tài chính vi mô. Thực tế
tại Indonesia, Thái Lan và Bangladesh cho thấy, trong giai đoạn đầu phát triển, tổ chức tài chính
vi mô hoạt động chưa theo khuôn khổ pháp luật; hoặc chưa có nguồn vốn để hoạt động; vì thế
cần có sự khuyến khích, ủng hộ của chính phủ để các tổ chức này có thể tồn tại và phát triển
nhanh chóng. Việc ủng hộ có thể từ việc cung cấp vốn hoạt động; quảng bá, tạo hình ảnh gần gũi
cho công chúng; hoặc thông qua các chương trình bắt buộc. Việt Nam với tỷ lệ dân số ở mức
sống trung bình và dưới trung bình còn cao, nhiều nơi vẫn còn rất khó khăn để các ngân
hàng thương mại tiếp cận vốn; thì việc thúc đẩy sự phát triển của tổ chức tài chính vi mô là rất
cần thiết, nhằm nâng cao mức sống của người dân, giảm khoảng cách giàu nghèo trong xã hội.
Thứ năm, tận dụng nguồn tiết kiệm trong dân chúng để có nguồn vốn cho tổ chức tài chính vi
mô thực hiện các chương trình, dự án phát triển phục vụ xã hội. Kinh nghiệm tại các quốc gia
như Indonesia, Bangladesh và Thái Lan cho thấy, nên tận
dụng nguồn vốn huy động được từ chính các cá nhân và hộ gia đình đã và sắp tham gia vào các
hoạt động của tổ chức tài chính vi mô; từ đó giúp các tổ chức này có nguồn vốn đề đầu tư vào
các dự án mới. Nếu các thành viên của tổ chức góp vốn vào để đầu tư, cho vay lại, thì họ sẽ rất
quan tâm đến tổ chức tài chính vi mô; bởi lẽ thông thường các tổ chức tài chính vi mô hay hoạt
động trong địa bàn gần nơi sinh sống, nhằm tận dụng mạng lưới khách hàng thân thiết. Chính
điều này về lâu dài sẽ giúp chương trình, dự án tài chính vi mô lớn mạnh lên, giảm được các chi
phí như chi phí lãi suất, chi phí kiểm soát các dự án,…
4. Analyze the pros and cons of formal and informal credit institutions
*Advantages of formal credit institutions:
Meeting the needs of modernizing agriculture - rural areas (requiring large capital and long
mobilization time).
Protected by law.
* Disadvantages of formal credit institutions:
Low interest rates make it difficult to mobilize savings
Poor farmers find it difficult to access.
Information asymmetry and moral hazard occur.
*Advantages of informal credit institutions
Properly reflect the rules of the market (fully meet the market's demand, interest rates fully
reflect costs and profits)
Transactional relations on a voluntary basis.
Farmers who widely use this service claim that their activities are very suitable for the actual
15
conditions of the countryside.
The lender knows the borrower's information.
* Disadvantages of informal credit institutions:
Small loan size.
The loan period is mainly short-term.
The informal credit market is often fragmented.
The ability to mobilize savings is usually very small and not reputable enough to mobilize
savings.
Failing to regulate the source of funds for borrowers.
A very large risk may appear, causing the borrower to default
produce at the same time.
*Ưu điểm của định chế tính dụng chính thức:
Đáp ứng được nhu cầu phát triển hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn (đòi hỏi vốn lớn và
thời gian huy động dài).
Được bảo hộ bởi pháp luật.
*Nhược điểm định chế tính dụng chính thức:
Lãi suất thấp dẫn đến việc khó khăn trong huy động tiết kiệm
Nông dân nghèo khó khăn trong việc tiếp cận tiếp cận.
Xảy ra tình trạng bất cân xứng thông tin và rủi ro đạo đức.
*Ưu điểm định chế tính dụng không chính thức
Phản ánh đúng quy luật của thị trường (đáp ứng đủ cầu của thị trường, lãi suất phản ánh
đầy đủ chi phí và lợi nhuận)
Quan hệ giao dịch trên cơ sở tự nguyện.
Nông dân sử dụng rộng rãi dịch vụ này khẳng định hoạt động của họ rất thích hợp đối với điều
kiện thực tế của nông thôn.
Người cho vay nắm rõ thông tin của người đi vay.
*Nhược điểm định chế tính dụng không chính thức:
Quy mô cho vay nhỏ.
Thời kỳ cho vay chủ yếu là ngắn hạn.
16
Thị trường tín dụng không chính thức thường bị chia cắt phân tán.
Khả năng huy động tiết kiệm thường rất nhỏ và không đủ uy tín để huy động tiết kiệm.
Không điều hòa được nguồn vốn phục vụ cho người mượn.
Sự rủi ro rất lớn có thể xuất hiện làm cho người vay phải phá sản cùng một lúc.
5. Factors affecting the operation of official credit institutions. Which of these
factors do you think has a strong influence, and why?
Firstly, diversifying the type of ownership in the rural credit institution system makes it more
competitive and beneficial to farmers, limiting monopolies, creating more opportunities for
farmers to access resources. official capital
Secondly, the structure of credit institutions according to vertical integration helps to have
advantages in terms of loan capital regulation, convenience for savings mobilization and
lending, advantages of scale (transaction costs per person). low borrowing, maximum use of
modern equipment, capital, and brain power)
Third, the high density of branch branches of a rural credit institution (number of transaction
units per unit of agricultural land) helps to: improve farmers' access to processing;
understanding the borrower's specific situation, improving the quality
of appraisal of the borrower's solvency; expand the scale of borrowers and mobilize
savings, creating advantages in transaction costs.
Fourthly, diversifying the service functions of rural financial institutions will help: meet diverse
needs in rural areas, attract rural people with diverse types of services (savings, subscriptions,
etc.) sending, entrusting, paying in transactions), creating more competitiveness for informal
credit institutions; The diversified loan structure will reduce risks and expand lending and
savings volumes, creating advantages in transaction costs.
Thứ nhất, đa dạng hóa loại hình sở hữu đối với hệ thống định chế tín dụng nông thôn giúp
nhiều cạnh tranh và có lợi cho người nông dân hơn, hạn chế độc quyền, tạo nhiều cơ hội cho
người nông dân tiếp cận với nguồn vốn chính thức
Thứ hai, cấu trúc định chế tín dụng theo hội nhập dọc giúp có lợi thế về điều hòa nguồn vốn
cho vay, Thuận tiện cho việc huy động tiết kiệm và cho vay, lợi thế về qui mô (chi phí giao dịch
trên 1 người mượn thấp, hữu dụng hóa tối đa trang thiết bị hiện đại, nguồn vốn, chất xám)
Thứ ba, mật độ của các chi nhánh cơ sở của một định chế tín dụng nông thôn cao (số đơn vị
giao dịch trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp) giúp: cải thiện khả năng tiếp cận của nông
dân đối với định chế; hiểu biết tình huống cụ thể của người mượn, nâng cao chất lượng thẩm
định năng lực thanh toán của người mượn; mở rộng được qui mô người mượn và huy động tiết
kiệm tạo lợi thế trong chi phí giao dịch.
17
Thứ tư, đa dạng hóa chức năng dịch vụ của định chế tài chính nông thôn điều này sẽ giúp: đáp
ứng nhu cầu đa dạng ở nông thôn, thu hút người dân nông thôn với loại hình dịch vụ đa dạng
(tiết kiệm, ký gửi, ủy thác, thanh toán trong giao dịch), tạo sức cạnh tranh hơn đối với các định
chế tín dụng không chính thức; cấu trúc đa dạng tiền cho vay sẽ giảm bớt rủi ro và mở rộng
doanh số cho vay cũng như huy động tiết kiệm tạo lợi thế về chi phí giao dịch.
6. Why saying low interest rate is not an effective tool to reduce poverty in rural
areas:
Firstly, the application of low interest rates will lead to failure to mobilize savings, leading to a
decrease in loan capital. The decline in loan capital will not be enough capital to provide
farmers with loans.
Secondly, the low interest rate policy limits the profitability of institutions. From there, the
institutions will lend to selected, low-risk subjects (with collateral and large loan amounts) and
minimize the cost of information collection for customers. Poor farmers, small producers will
not be able to access loans.
Thirdly, low real interest rates will encourage the transfer of transaction costs from rural credit
institutions to borrowers and affect their service style.
Fourthly, the concern of poverty alleviation is not credit or interest. To solve the problem of
poverty, it is necessary to find out the causes of poverty. The source of poverty and the way to
reduce it is education. In order to improve poverty, we should support them to improve their
skills, improve their knowledge about farming, animal husbandry... not just finance.
Thứ nhất việc áp dụng lãi suất thấp sẽ dẫn đến không huy động được tiết kiệm dẫn đến suy giảm
nguồn vốn cho vay. Việc suy giảm nguồn vốn vay sẽ không thể đủ vốn để cung cấp cho nông dân
vay mượn.
Thứ hai, chính sách lãi suất thấp làm hạn chế khả năng sinh lợi của các định chế. Từ đó các
định chế sẽ cho vay theo đối tượng chọn lọc, ít rủi ro (có tài sản thế chấp và qui mô lượng tiền
vay lớn) và hạn chế tối đa chi phí thu thập thông tin đối với khách hàng. Người nông dân
nghèo, sản xuất nhỏ sẽ không thể tiếp cận được vốn vay.
Thứ ba, lãi suất thực thấp sẽ khuyến khích sự dịch chuyển chi phí giao dịch từ các định chế tín
dụng nông thôn đến người mượn và ảnh hưởng đến phong cách phục vụ của các định chế.
Thứ tư, vấn đề quan tâm của xóa đói giảm nghèo không phải là tín dụng hay lãi suất. Để giải
quyết vấn đề đói nghèo, cần phải tìm ra nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. Nguồn gốc của đói
nghèo và cách để giảm nó là giáo dục. Để cải thiện tình trạng nghèo đói, chúng ta nên hỗ trợ họ
nâng cao tay nghề, nâng cao kiến thức về trồng trọt, chăn nuôi ... chứ không chỉ về tài chính.
18