Lê Trung Tường
Lê Trung Tường | |
---|---|
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 1/4/1975 – 30/4/1975 |
Cấp bậc | -Chuẩn tướng |
Tư lệnh | -Trung tướng Nguyễn Văn Toàn |
Tiền nhiệm | -Đại tá Vũ Ngọc Tuấn |
Kế nhiệm | Sau cùng |
Vị trí | Quân khu III |
Nhiệm kỳ | 11/1973 – 3/1975 |
Cấp bậc | -Đại tá -Chuẩn tướng (4/1974) |
Tư lệnh phó Tham mưu trưởng | -Đại tá Vũ Thế Quang -Đại tá Hà Thúc Tứ |
Tiền nhiệm | -Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm |
Kế nhiệm | -Đại tá Lê Hữu Đức[1] |
Vị trí | Quân khu II |
Nhiệm kỳ | 1/1971 – 11/1973 |
Cấp bậc | -Đại tá |
Tư lệnh Quân đoàn | -Trung tướng Ngô Dzu -Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn |
Vị trí | Quân khu II |
Nhiệm kỳ | 6/1966 – 12/1969 |
Cấp bậc | -Đại tá |
Tư lệnh Quân đoàn | -Trung tướng Lữ Lan |
Vị trí | Vùng 2 chiến thuật |
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Bình Định | |
Nhiệm kỳ | 6/1965 – 6/1966 |
Cấp bậc | -Đại tá |
Vị trí | Vùng 2 chiến thuật |
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Quảng Ngãi | |
Nhiệm kỳ | 2/1964 – 6/1965 |
Cấp bậc | -Trung tá -Đại tá (6/1965) |
Kế nhiệm | -Trung tá Tôn Thất Khiên |
Vị trí | Vùng 1 chiến thuật |
Nhiệm kỳ | 11/1963 – 2/1964 |
Cấp bậc | -Thiếu tá -Trung tá (2/1964) |
Tư lệnh Sư đoàn | -Đại tá Lữ Lan |
Vị trí | Vùng 3 chiến thuật |
Nhiệm kỳ | 6/1962 – 11/1963 |
Cấp bậc | -Thiếu tá |
Chỉ huy trưởng | -Đại tá Tôn Thất Xứng |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Nhiệm kỳ | 1/1961 – 6/1962 |
Cấp bậc | -Thiếu tá |
Tư lệnh Quân đoàn | -Thiếu tướng Tôn Thất Đính |
Vị trí | Vùng 2 chiến thuật |
Nhiệm kỳ | 12/1958 – 1/1961 |
Cấp bậc | -Thiếu tá |
Tư lệnh Sư đoàn | -Đại tá Nguyễn Văn Chuân -Đại tá Tôn Thất Xứng |
Vị trí | Vùng 1 chiến thuật |
Nhiệm kỳ | 1/1957 – 12/1958 |
Cấp bậc | -Thiếu tá |
Tư lệnh Sư đoàn | -Đại tá Nguyễn Khánh |
Vị trí | Đệ nhị Quân khu |
Nhiệm kỳ | 12/1955 – 1/1957 |
Cấp bậc | -Thiếu tá (8/1954) |
Tư lệnh Sư đoàn | -Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm |
Vị trí | Đệ nhất Quân khu (tiền thân Vùng 1 chiến thuật) |
Thông tin cá nhân | |
Quốc tịch | Việt Nam Cộng hòa Việt Nam |
Sinh | 1 tháng 1 năm 1927 Thừa Thiên, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương |
Mất | 22 tháng 5 năm 2009 Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam | (82 tuổi)
Nguyên nhân mất | Tuổi già |
Nơi ở | Sài Gòn |
Nghề nghiệp | Quân nhân |
Dân tộc | Kinh |
Vợ | Hoàng Thị Quảng |
Con cái | 9 người con (6 trai, 3 gái) Lê Song Lê Hoành Lê Thị Hiệp Lê Thị Nga Lê Đôn Lê Trung Tuấn Lê Trung Thắng Lê Thị Thủy Lê Trung Định |
Học vấn | Thành chung |
Alma mater | -Trường Trung học chương trình Pháp tại Huế -Trường Hạ sĩ quan An Cựu, Huế -Trường Võ bị Quốc gia ở Huế -Trường Cao đẳng Quốc phòng |
Quê quán | Trung Kỳ |
Binh nghiệp | |
Thuộc | Quân lực VNCH |
Phục vụ | Việt Nam Cộng hòa |
Năm tại ngũ | 1947-1975 |
Cấp bậc | Chuẩn tướng |
Đơn vị | Sư đoàn 1 Bộ binh Sư đoàn 23 Bộ binh Sư đoàn 25 Bộ binh Biệt động quân Quân đoàn II Quân đoàn III |
Chỉ huy | QĐ Thuộc địa Pháp Quân đội Quốc gia Quân lực VNCH |
Tham chiến | -Chiến tranh Đông Dương -Chiến tranh Việt Nam |
Lê Trung Tường, nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Quốc gia do Quân đội Pháp và Chính phủ Quốc gia mở ra ở miền Trung với mục đích đào tạo sĩ quan người Việt để phục vụ trong hàng ngũ Quân đội Liên hiệp Pháp. Ông đã tuần tự giữ từ chức vụ chỉ huy cấp Trung đội cho đến chỉ huy cấp Sư đoàn Bộ binh.
Tiểu sử & Binh nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Ông sinh ngày 1 tháng 1 năm 1927 trong một gia đình Nho học tại Thừa Thiên, miền Trung Việt Nam. Thời niên thiếu ông học Tiểu và Trung học tại Huế. Năm 1945, ông tốt nghiệp chương trình Trung học Pháp tại Huế với văn bằng Thành chung. Sau đó ông được bổ dụng làm giáo chức ở Huế.
Quân đội Pháp
[sửa | sửa mã nguồn]Cuối năm 1947, ông nhập ngũ vào Quân đội Pháp, mang số quân: 47/201.886. Theo học khóa Hạ sĩ quan tại trường Hạ sĩ quan An Cựu, Huế. Giữa năm 1948, ra trường phục vụ tại Việt binh đoàn ở Huế. Trung tuần tháng 9 năm 1949, ông trúng tuyển nhập học khóa 2 Quang Trung tại trường Võ bị Quốc gia ở Huế, khai giảng ngày 25 tháng 9 năm 1949. Ngày 24 tháng 6 năm 1950 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được chọn về đơn vị Bộ binh giữ chức vụ Trung đội trưởng trong Tiểu đoàn Việt Nam thuộc Quân đội Quốc gia thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp.
Quân đội Quốc gia Việt Nam
[sửa | sửa mã nguồn]Thượng tuần tháng 4 năm 1952, Quân đội Quốc gia Việt Nam chính thức thành lập Bộ Tổng tham mưu, ông được thăng cấp Trung úy và được giữ chức vụ Đại đội trưởng. Cuối năm 1953, ông được thăng cấp Đại úy tại nhiệm, sau đó ông được cử giữ chức vụ Tiểu đoàn phó.
Cuối tháng 7 năm 1954, sau hiệp định Genève (20 tháng 7), ông cùng đơn vị di chuyển vào Nam, tháng 8 sau đó ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
[sửa | sửa mã nguồn]Cuối năm 1955, sau khi Quân đội Quốc gia được đổi tên thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được cử giữ chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 trong Sư đoàn 1 Dã chiến do Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm làm Tư lệnh. Đến đầu năm 1957, ông chuyển lên Bộ tư lệnh Sư đoàn giữ chức vụ Trưởng phòng 3 kiêm Chỉ huy trưởng Trung tâm Hành quân, dưới quyền Đại tá Nguyễn Khánh Tư lệnh Sư đoàn.
Cuối năm 1958, Sư đoàn 1 Dã chiến đổi tên thành Sư đoàn 1 Bộ binh, một lần nữa ông được cử giữ chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 dưới quyền Tư lệnh Sư đoàn là Đại tá Tôn Thất Xứng.
Đầu năm 1961, ông được chuyển nhiệm vụ về Vùng 2 chiến thuật giữ chức vụ Trưởng phòng 3 kiêm Tham mưu phó Quân đoàn II do Thiếu tướng Tôn Thất Đính làm Tư lệnh. Qua giữa năm 1962, ông chuyển về Trung ương và được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Binh chủng Biệt động quân do Đại tá Tôn Thất Xứng làm Chỉ huy trưởng.
Đầu tháng 11 năm 1963, sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm (ngày 1 tháng 11), ông chuyển trở lại đơn vị Bộ binh giữ chức vụ Tham mưu trưởng Sư đoàn 25 Bộ binh dưới quyền Đại tá Lữ Lan tư lệnh Sư đoàn.
Đầu tháng 2 năm 1964, sau cuộc Chỉnh lý nội bộ ngày 30 tháng 1 với các tướng lãnh trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng để giành quyền lãnh đạo của tướng Nguyễn Khánh, ông được thăng cấp Trung tá, chuyển sang lĩnh vực Hành chính Quân sự, ông được bổ nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Quảng Ngãi thuộc Quân khu 1.
Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1965, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm, bàn giao tỉnh Quảng Ngãi lại cho Trung tá Tôn Thất Khiên[2] chuyển về Quân khu 2 giữ chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Bình Định.
Giữa năm 1966, bàn giao tỉnh Bình Định lại cho Trung tá Hà Mai Việt[3], ông được cử làm Tham mưu trưởng Quân đoàn II và Vùng 2 Chiến thuật. Cuối năm 1969, ông được cử đi học tại trường Cao đẳng Quốc phòng đến giữa năm 1970 mãn khóa. Đầu năm 1971, ông được chỉ định chức vụ Phụ tá Tư lệnh Quân đoàn II kiêm Tư lệnh phó Lãnh thổ Quân khu 2 trải qua 2 vị Tư lệnh là Trung tướng Ngô Dzu và Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn.
Hạ tuần tháng 11 năm 1973, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh kiêm Tư lệnh Mặt trận Kon Tum, hoán chuyển nhiệm vụ với Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm.[4] Ngày 1 tháng 4 năm 1974, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm.
- Sư đoàn 23 Bộ binh vào thời điểm đầu tháng 3/1975, nhân sự của Bộ tư lệnh Sư đoàn và Chỉ huy các Trung đoàn được phân bổ trách nhiệm như sau:
-Tư lệnh - Chuẩn tướng Lê Trung Tường
-Tư lệnh phó - Đại tá Vũ Thế Quang[5]
-Tham mưu trưởng - Đại tá Hà Thúc Tứ[6]
-Chỉ huy Pháo binh - Trung tá Đặng Nguyên Phả[7]
-Trung đoàn 44 - Trung tá Ngô Văn Xuân[8]
-Trung đoàn 45 - Đại tá Phùng Văn Quang[9]
-Trung đoàn 53 - Đại tá Võ Ân[10]
1975
[sửa | sửa mã nguồn]Chiều ngày 14 tháng 3, ông bị thương tại cầu 31, thuộc quận Phước An, tỉnh Đắk Lắk trong khi đang chỉ huy và điều động các Trung đoàn trực thuộc hành quân tái chiếmBuôn Ma Thuộtt. Ông được di tản ra khỏi mặt trận. Ngay sau đó, Đại tá Lê Hữu Đức[11], nguyên Chánh Sở An ninh Quân đội Quân đoàn II được cử làm Tư lệnh Sư đoàn 23. Đầu tháng 4 năm 1975, sau khi xuất viện ông được cử vào chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn III do Trung tướng Nguyễn Văn Toàn làm Tư lệnh.
Sau ngày 30 tháng 4, ông ra trình diện Chính quyền Quân quản của Chế độ mới, chính quyền mới đưa ông đi học tập và cải tạo từ Nam ra Bắc cho đến ngày 11 tháng 2 năm 1988 mới được trả tự do.
Ông không xuất cảnh theo diện H.O do Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh mà ở lại Việt Nam.
Ngày 22 tháng 5 năm 2009 ông từ trần tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 82 tuổi.
Gia đình
[sửa | sửa mã nguồn]- Phu nhân: Bà Hoàng Thị Quảng
- Các con: Lê Song, Lê Hoành, Lê Đôn, Lê Thị Hiệp, Lê Thị Nga, Lê Trung Tuấn, Lê Trung Thắng, Lê Thị Thủy, Lê Trung Định.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Thời điểm Đại tá Lê Hữu Đức thay thế Chuẩn tướng Lê Trung Tường tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh chỉ là trên danh nghĩa, thực chất tân Tư lệnh chỉ còn biết có quân số tại Bộ tư lênh mà thôi, vì vào lúc đó Sư đoàn này đã hoàn toàn bị xé lẻ. Các đơn vị trực thuộc, đơn vị trưởng đã mất khả năng chỉ huy và cũng không còn kiểm soát được quân số của mình và tùy nghi di tản. Do đó có thể coi như Tư lệnh sau cùng của Sư đoàn 23 là Chuẩn tướng Lê Trung Tường
- ^ Trung tá Tôn Thất Khiên sinh năm 1930 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 1 Võ khoa Thủ Đức, về sau lên cấp Đại tá Tỉnh trưởng các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị
- ^ Trung tá Hà Mai Việt sinh năm 1933 tại Nam Định, tốt nghiệp khóa 5 Võ khoa Thủ Đức, về sau lên cấp Đại tá
- ^ Tướng Trần Văn Cẩm về Quân đoàn II thay thế Đại tá Lê Trung Tường làm Tư lệnh phó lãnh thổ Quân khu 2.
- ^ Đại tá Vũ Thế Quang sinh năm 1933 tại Hà Nội, tốt nghiệp khóa 4 Võ bị Đà Lạt
- ^ Đại tá Hà Thúc Tứ sinh năm 1931, tốt nghiệp khóa 4 Võ bị Đà Lạt
- ^ Trung tá Đặng Nguyên Phả, tốt nghiệp khóa 4 Võ khoa Thủ Đức
- ^ Trung tá Ngô Văn Xuân sinh năm 1940 tại Hải Phòng, tốt nghiệp khóa 17 Võ bị Đà Lạt, là nhà văn với bút hiệu Song Vũ
- ^ Đại tá Phùng Văn Quang, tốt nghiệp khóa 7 Võ bị Đà Lạt
- ^ Đại tá Võ Ân sinh năm 1941 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 18 Võ bị Đà Lạt
- ^ Đại tá Lê Hữu Đức sinh năm 1925 tại Bạc Liêu, nguyên là sĩ quan Giáo phái Hòa Hảo được đồng hóa qua Quân đội Quốc gia Việt Nam và sau nữa là Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.